Đông quỳ, hay còn gọi là Malva verticillata L., là một loại cây thảo thuộc họ Bông (Malvaceae) được sử dụng rộng rãi trong Đông y với nhiều công dụng đa dạng.
Đặc điểm nhận biết
Đông quỳ là cây thân thảo, sống hai năm, có thể cao tới 1m hoặc hơn. Thân cây hình trụ, mọc thẳng, phân nhiều cành, có màu lục và được phủ lông hình sao. Lá cây mọc so le, hình tim hoặc gần tròn, đường kính khoảng 4 – 5cm, có gốc hình tim sâu và đầu lá tròn hoặc hơi nhọn. Lá thường chia thành 5 thùy nông không đều hình chân vịt, mép lá có răng cưa đều. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, gồm 4 – 5 hoa không cuống hoặc có cuống ngắn, hoa màu trắng có vân đỏ tím và đường kính khoảng 1cm. Quả là dạng nang chứa nhiều hạt dẹt.
Phân bố và sinh thái
Ở Việt Nam, chi Malva L. chỉ có một loài duy nhất là cây đông quỳ. Cây được nhập trồng làm cảnh nhưng cũng được ghi nhận mọc hoang dại ở Lai Châu. Đông quỳ là cây ưa sáng và đặc biệt ưa ẩm, dễ dàng trồng bằng hạt. Cây ra hoa sau khoảng 3 tháng gieo trồng, hoa nở từ dưới lên và phần ngọn cùng cành vẫn tiếp tục phát triển, ra nụ và hoa mới.
Bộ phận dùng và cách chế biến
– Rễ và cành lá: Thu hái quanh năm, sau đó phơi khô.
– Hạt: Thu hái vào mùa xuân, phơi trong râm.
Thành phần hóa học
Đông quỳ chứa acid malvalic. Gần đây, nhiều loại polysaccharid có tác dụng sinh học đã được phân lập từ đông quỳ, bao gồm:
– Polysaccharid MVS I: Cấu tạo bởi arabinose, galactose và glucose.
– Polysaccharid MVS II A (trong hạt): Cấu tạo bởi arabinose, glactose và mannose.
– MVS-II G: Gồm glucose, glactose và mannose.
– MVS III A: Gồm arabinose, xylose, galactose và acid galacturonic.
– Các polysaccharid acid MVS IV A: Chứa protein.
– MVS VI (trong hạt): Gồm arabinose, xylose, galactose, glucose, rhamnose và acid galacturonic.
Các polysaccharid như MVS-I, MVS II A, MVS III A, MVS IV A, MVS VI đều có tác dụng kháng bổ thể mạnh. Đặc biệt, polysaccharid MVS I và polysaccharid giàu MVS V – CH từ peptidoglycan MVS, V còn thể hiện hoạt tính giảm đường huyết. Hạt đông quỳ cũng chứa các glycan có tác dụng sinh học.
Tác dụng dược lý
– Tác dụng kháng bổ thể và hạ glucose huyết: Các glycan từ hạt đông quỳ đã được chứng minh có tác dụng kháng bổ thể và hạ glucose huyết.
– Tác dụng thực bào: Hoạt chất trong hạt đông quỳ, đặc biệt là một acid polysaccharid, có tác dụng kích thích hoạt tính thực bào.
Tính vị, công năng và công dụng
– Hạt đông quỳ: Có vị ngọt, tính hàn, quy vào các kinh đại tràng, tiểu tràng và bàng quang. Có tác dụng lợi tiểu, lợi sữa, nhuận tràng.
Công dụng: Được dùng chữa bí đại tiểu tiện, phù khi có thai, ít sữa, sỏi tiết niệu. Liều dùng 3 – 9g dưới dạng bột hoặc sắc uống.
– Cành lá: Có vị ngọt, tính hàn. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp.
Công dụng: Chữa viêm đường tiết niệu, phong nhiệt sinh ho (liều 3 – 9g sắc uống). Cành lá tươi giã nát đắp tại chỗ chữa sưng vú. Lá phơi âm can, đốt tồn tính, tán bột, sát chữa ghẻ và ngứa. Lá và ngọn non còn được dùng làm rau ăn để lợi tiêu hóa, đặc biệt cho phụ nữ sắp đẻ.
– Rễ: Có vị ngọt, tính ấm. Có tác dụng bổ trung, ích khí.
Công dụng: Dùng chữa ít sữa, sỏi thận (liều 30-60g, sắc uống). Rễ phơi âm can, sao tồn tính, lấy tro, tán bột mịn, rắc chữa vết thương, chỗ lở loét, hôi thối.
Bài thuốc có đông quỳ
Trong Y học cổ truyền, đông quỳ được sử dụng trong các bài thuốc chữa phù khi có thai, thân thể nặng nề, bí tiểu tiện, hoa mắt khi đang ngồi đứng dậy:
+ Bài 1 (Quỳ tử phục linh tán): Hạt đông quỳ 500g, phục linh 90g. Tất cả nghiền thành bột mịn. Uống 10g/lần, 3 lần/ngày cho đến khi đi tiểu được.
+ Bài 2: Hạt đông quỳ 6g, đại hoàng 3g. Sắc chia 2 lần uống trong ngày.